Mặc dù tuổi tác, giới tính, chủng tộc và độ cận thị là những yếu tố nguy cơ quan trọng không thể thay đổi được trong sự phát triển của bệnh đục thủy tinh thể tuổi già nhưng cần đặc biệt chú ý đến các yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được.
Klein và cộng sự đề xuất rằng các yếu tố kinh tế xã hội và lối sống nhất định có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh đục thủy tinh thể ngoài ảnh hưởng của tuổi tác và giới tính. Không có yếu tố phơi nhiễm đáng kể nào liên quan đến tăng hình thành đục thể tinh cực sau hoặc đục vỏ. Nam và cộng sự đã tìm thấy kết quả tương tự trong nghiên cứu của họ về dân số Hàn Quốc. Hút thuốc có liên quan đến việc tăng nguy cơ đục thủy tinh thể do xơ cứng nhân trung tâm ở cả nam và nữ. Ngoài ra, nguy cơ đục thủy tinh thể tăng lên ở những người và hộ gia đình thu nhập , trình độ học vấn thấp hơn. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của họ, mối liên quan này chỉ được tìm thấy ở nữ giới.
Uống rượu cũng được cho là có thể làm tăng nguy cơ đục thủy tinh thể. Tuy nhiên, dữ liệu không có tính liên tục nên chưa thể kết luận được. Nghiên cứu Blue Mountain Eye không tìm thấy mối liên hệ đáng kể nào giữa việc uống rượu và nguy cơ đục thủy tinh thể lâu dài. Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh các yếu tố nguy cơ khác, các tác giả kết luận rằng tổng lượng rượu tiêu thụ trên hai ly mỗi ngày có liên quan đến việc tăng khả năng phẫu thuật đục thủy tinh thể. Điều thú vị là các tác giả cũng phát hiện ra rằng việc kiêng rượu cũng có liên quan đến việc tăng khả năng phẫu thuật đục thủy tinh thể khi so sánh với việc tiêu thụ 1 đến 2 ly mỗi ngày. Một phân tích tổng hợp gần đây của Wang và Zhang đã tổng hợp dữ liệu từ 07 nghiên cứu thuần tập tiền cứu: 119 706 người tham gia và không tìm thấy nguy cơ bị đục thủy tinh thể do uống rượu do uống nhiều rượu tăng lên nói chung không tăng nguy cơ đục thủy tinh thể do uống nhiều rượu. Cần có những nghiên cứu thêm về lĩnh vực này.
Vai trò của dinh dưỡng đối với việc ngăn ngừa sự phát triển của bệnh đục thủy tinh thể là một lĩnh vực khác đang được tranh luận. Gritz và cộng sự kết luận rằng việc bổ sung chất chống oxy hóa như Beta carotene, Vitamin C và Vitamin E, không ảnh hưởng đến sự tiến triển của bệnh đục thủy tinh thể. Trong nghiên cứu chất chống oxy hóa trong phòng ngừa bệnh đục thủy tinh thể Fernandez và Afshari đã xem xét tài liệu và thấy rằng việc bổ sung dinh dưỡng với vitamin C, lutein, zeaxanthin hoặc một loại vitamin tổng hợp có thể giúp ích cho một nhóm dân số nhất định, chẳng hạn như những người hút thuốc nặng và những người có chế độ dinh dưỡng kém, nhưng không có khả năng ảnh hưởng đến sự tiến triển của bệnh đục thủy tinh thể ở hầu hết các bệnh nhân. Tài liệu gần đây hơn từ nghiên cứu AREDS cho thấy những người tham gia không bị cận thị và sử dụng Vitamin tổng hợp hàng ngày (Centrum) ít có khả năng phát triển bệnh đục thủy tinh thể ở mức độ trung bình. Mặc dù dữ liệu là không thuần nhất nhưng một chế độ ăn uống lành mạnh bao gồm trái cây và rau có chứa Vitamin C, E và A; và các chất bổ sung vitamin tổng hợp có thể bảo vệ chống lại bệnh đục thủy tinh thể.
Cuối cùng, tia cực tím có liên quan đến sự phát triển của đục thủy tinh thể chủ yếu do stress oxy hóa và dẫn đến viêm nhiễm. Mặc dù thủy tinh thể hấp thụ cả bức xạ UV-A và UV-B, nhưng chính bức xạ UV-B góp phần hình thành đục thủy tinh thể. Taylor và cộng sự đã nghiên cứu 838 thủy thủ làm việc trên Vịnh Chesapeake và phát hiện ra rằng mức độ tích lũy cao của việc tiếp xúc với tia UV-B làm tăng đáng kể nguy cơ mắc đục bao thể thủy tinh. Các tác giả không tìm thấy mối liên hệ nào giữa việc tiếp xúc với tia UV-A và bệnh đục thủy tinh thể. Phát hiện này cũng được hỗ trợ bởi nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy mối liên quan của đục bao thể thủy tinh phổ biến hơn ở những người làm việc ngoài trời.
Nguồn : Bs Hoàng Cương - BVM TW